Seiko là thương hiệu đồng hồ nổi tiếng Nhật Bản và được ưa chuộng trên toàn thế giới. Bắt đầu chỉ từ một cửa hàng trang sức, đến nay đã trải qua hơn 100 năm, Seiko vẫn giữ vũng vị trí số 1 Nhật Bản của mình. Hôm nay, mời bạn hãy cùng vivushop khám phá lịch sử thương hiệu này nhé.
Bắt nguồn từ quận Griza, Tokyo, Seiko tiền thân là một cửa hàng trang sức có tên K.Hattori &Co, Ltd do doanh nhân 21 tuổi – Kintaro Hattori sáng lập vào năm 1881. Ban đầu, cửa hàng chỉ chuyên bán đồng hồ và trang sức.
11 năm sau, tức đến năm 1982, Kintaro Hattori đã hợp tác với một kỹ sư tên là Tsuruhiko Yoshikawa để thành lập nhà máy sản xuất đồng hồ Seikosha – một trong những nền móng của công ty sản xuất đồng hồ Seiko sau này. Có thể bạn chưa biết, “Seiko” trong tiếng Nhật mang ý nghĩa “tinh tế”, “tỉ mỉ” và “thành công”, “sha” có nghĩa là “nhà.
Ngày nay, Seiko đã phát triển thành một tập đoàn đại chúng kinh doanh trong nhiều lĩnh vực như sản xuất và mua bán đồng hồ, thiết bị điện tử, phụ kiện bán dẫn và quang học,… Nhưng trong số đó, nổi tiếng nhất vẫn là sản xuất đồng hồ.
Những cột mốc đáng nhớ của thương hiệu Seiko
Năm 1892, thương hiệu cho ra đời chiếc đồng hồ đầu tiên của mình dưới cái tên Seikosha. Những năm đầu, nhà máy chỉ sản xuất đồng hồ treo tường. Chỉ sau 2 năm, Kintaro Hattori đã mở thêm cửa hàng đồng hồ thứ 2 cũng tại Ginza của Tokyo.
Năm 1895, đồng hồ bỏ túi Seikosha đầu tiên được sản xuất. Đây là một bước đi cực kỳ quan trọng, đóng vai trò viên gạch trải đường cho sự ra đời của chiếc đồng hồ đeo tay đầu tiên của Nhật Bản.
Tự hào hơn cả, năm 1913, Seikosha cho ra chiếc đồng hồ đeo tay đầu tiên của mình là Laurel. Laurel được biết là chiếc đồng hồ đeo tay đầu tiên của Nhật Bản bởi chúng được chế tác từ những linh kiện quan trọng có nguồn gốc Nhật mà không phải phương Tây như các sản phẩm trước đây. Ở quãng thời gian ban đầu Laurel chỉ được sản xuất 30 – 50 chiếc mỗi ngày.
Năm 1923, trận đại động đất Kanto đã phá hủy tòa bộ nhà máy Seikosha, buộc hãng phải ngừng sản xuất đồng hồ. Tuy nhiên, đúng như tinh thần truyền thống của một người Nhật quật cường, Hattori nhanh chóng quyết định cho xây dựng lại nhà máy mặc dù chi phí rất lớn. Chỉ đến tháng 12/1923, Seikosha đã lại tiếp tục bán ra những chiếc đồng hồ mới.
Một năm sau đó, 1924, thương hiệu Seikosha đổi tên và sản xuất chiếc đồng hồ đeo tay đầu tiên mang tên thương hiêu mới “Seiko” với một tinh thần mới: “chính xác”, “tinh tế” và “cải tiến”.
Năm 1929, Seiko được chọn là nhà cung cấp đồng hồ chính thức cho ngành đường sắt Nhật Bản.
Năm 1932, trụ sở của Seiko được xây dựng, mang kiến trúc đậm nét văn hóa thời kỳ Phục Hưng. Nhưng thật không may là nhà sáng lập Kintaro Hattori đã qua đời chỉ sau đó 2 năm, để lại công ty cho con trai ông, Genzo Hattori.Năm 1937, tên gọi Seiko mới được sử dụng chính thức mặc dù trong khi nó đã xuất hiện trên mặt số đồng hồ từ 1924.
Thời gian sau đó, tuy rằng sự phát triển mạnh mẽ của Seiko bị gián đoạn sau chiến tranh thế giới thứ 2 nhưng may mắn là họ đã trở lại vào năm 1953.
Năm 1956, Seiko giới thiệu Diashock – hệ thống chống sốc vượt trội hơn so với các phiên bản tiền nhiệm cũng như các đồng hồ Nhật Bản khác trong thời điểm đó. Chúng chỉ mỏng 0.07 – 0.08 mm giống như một sợi tóc. Seiko Marvel là chiếc đồng hồ đầu tiên của Seiko được tích hợp Diashock. Đây cũng là cỗ máy mang tính thời đại trong lịch sử của Seiko vì tất cả các linh kiện của nó được tự thiết kế (fully in-house) – tức là không phải nhập khẩu chi tiết máy được sản xuất ở Thụy Sĩ hoặc ở nơi khác.
Năm 1959, Seiko Marvel được thay thế bằng phiên bản mới mang tên Seiko Gyro Marvel. Đặc biệt hơn ở chỗ, Seiko được tích hợp một công nghệ nức tiếng khác của Seiko: Magic Level. Cơ chế này bổ sung bộ phận kim loại mảnh hình chữ V giúp máy tích cót cả 2 chiều khi bánh đà xoay. Điều nay làm tăng gấp đôi hiệu quả lên cót, góp phần đáng kể cho sự trường thọ của đồng hồ.
Năm 1960, Seiko giới thiệu mẫu đồng hồ Grand Seiko. Đây là mẫu đồng hồ với độ chính xác rất cao – vượt qua các hãng đồng hồ cao cấp Thụy Sĩ lúc đó và chiếc đồng hồ này đã ghi tên mình vào lịch sử đồng hồ thế giới, trở thành một huyền thoại về độ chính xác lúc bấy giờ.
Năm 1964, Seiko trở thành nhà cung cấp đồng hồ chính thức cho đại hội thể thao Olympic lần thứ 18 được tổ chức tại Tokyo với 1278 cỗ máy được phục vụ. Cũng trong năm đó, đồng hồ đeo tay tích hợp chức năng bấm giờ đầu tiên của Seiko được sản xuất.
Năm 1965, Seiko cho ra mắt chiếc đồng hồ lặn đầu tiên của hãng, với độ chịu nước 150m.
Vào năm 1969, Seiko giới thiệu Seiko Astron, đồng hồ đeo tay máy thạch anh (quartz) đầu tiên trên thế giới với độ chính xác gần như tuyệt đối, gọn nhẹ, tiện dụng và giá thành thì rất rẻ so với đồng hồ truyền thống. Sự kiện này đã tạo ra một cơn địa chấn trong làng đồng hồ, gây ra cơn khủng khoảng nghiêm trọng với cả ngành công nghiệp đồng hồ Thụy Sĩ trong những năm 80.
Cùng thời điểm đó, Seiko cũng chạy đua để cho ra mắt máy Automatic Chronograph 36000 VPH với các hãng Thụy Sĩ.
Tháng 10/1973, Seiko lại tiếp tục đưa ra một thành tựu “đầu tiên trên thế giới” của mình, đó là chiếc đồng hồ điện tử màn hình LCD đầu tiên trên thế giới, hiển thị 6 chữ số điện tử, với đèn phát sáng, hiển thị giờ rõ ràng.
Đến năm 1975, những tính năng phức tạp hơn được tích hợp vào Seiko quartz như bấm giờ với độ chính xác 1/10 giây, bấm giờ ngắt quãng,…
Cũng trong năm 1975, Seiko giới thiệu chiếc đồng hồ lặn Seiko Professional Divers 600m vỏ Titanium đầu tiên trên thế giới. Thực ra, câu chuyện này bắt đầu từ năm 1968, Seiko nhận được một lá thư của một thợ lặn chuyên nghiệp phàn nàn về việc các đồng hồ lặn Seiko không thể chịu được khí Helium khi lặn bão hòa. 7 năm sau sự kiện này, Seiko đã tạo ra chiếc đồng hồ cực kỳ kín đáo và chắc chắn với vỏ Titanium, chịu áp lực nước ở độ sâu 600m và không hề bị xâm nhập bởi khí Titanium.
Seiko Professional Divers thực sự đã đặt ra một tiêu chuẩn mới cho đồng hồ lặn trên toàn thế giới.
Năm 1982 là năm ra đời của chiếc đồng hồ Seiko quartz kết nối Radio.
Năm 1983, đồng hồ Seiko quartz màn hình LCD tiếp tục được tích hợp chức năng ghi âm giọng nói. Chúng sẽ ghi tối đa 8 bản ghi, bạn có thể sử dụng chúng như chuông báo thức của đồng hồ. Cùng lúc đó, chiếc đồng hồ Chonograph quartz analog đầu tiên trên thế giới cũng được Seiko cho ra mắt.
Năm 1984: chiếc đồng hồ “máy tính” đầu tiên trên thế giới được phát minh bởi Seiko. Chúng có thể tính toán, lưu trữ danh bạ bao gồm số điện thoại và địa chỉ nhà.
Năm 1986, Seiko sản xuất đồng hồ lặn chất liệu Ceramic đầu tiên trên thế giới.
Năm 1988, Seiko tung Seiko Kinetic ra rộng rãi trên thị trường với cái tên thương mại ASG. Bộ máy Kinetic không cần sặc hay thay pin, nó lấy năng lượng từ chính cử động cánh tay của người đeo. Sự kiện này đã thu hút mọi sự chú ý trong làng đồng hồ, tạo nên tiếng vang lớn cho tên tuổi của Seiko. Trước đó, Seiko đã nghiên cứu đồng hồ năng lượng mặt trời từ 1977. Đến 1986, hãng cũng đã giới thiệu mẫu Kinetic đầu tiên tại hội chợ Basel dưới cái tên “AGM”.
Năm 1999, sản phẩm Seiko Spring Drive đầu tiên ra mắt. Spring Drive là công nghệ độc quyền nổi tiếng của Seiko. Máy Spring Drive giống máy cơ đến 80% nhưng loại bỏ những nhược điểm của máy cơ truyền thống, khiến độ chính xác của bộ máy tương đương với đồng hồ quartz.
Năm 2006, Seiko này cho ra mắt chiếc đồng hồ sử dụng công nghệ mực điện tử đầu tiên, là kết quả của kế hoạch hợp tác phát triển, kết hợp công nghệ “mực điện tử” của E Ink và màn hình cao cấp của Seiko Epson, cho độ tương phản cao gấp 2 lần.
Cùng năm đó, Seiko cũng giới thiệu dòng đồng hồ Credor cao cấp – là một trong những kiệt tác chế tác và điêu khắc đồng hồ thủ công của Seiko sánh ngang với các nhà sản xuất đồng hồ thủ công lâu đời của Thụy Sĩ.
Năm 2010, đồng hồ EDP đầu tiên trên thế giới được ra đời. Cha đẻ của nó, không ai khác, chính là Seiko. Chiếc đồng hồ đặc biệt này sở hữu màn hình hiển thị nhiều tiện ích, cho phép người dùng xem hình ảnh và dữ liệu trên mặt đồng hồ với 80.000 pixel, mỗi chức năng có 4 sắc thái khác nhau, cung cấp 300 dpi cho màn hình hiển thị. Đặc biệt, Seiko cũng cho ra mắt đồng hồ đặc biệt dành cho chuyến bay ngoài vũ trụ. Kết cấu bên trong và bên ngoài của chiếc đồng hồ Space Station được thực hiện hoàn hảo trong không gian. Nó đã vinh dự giành giải thưởng chiếc đồng hồ thể thao tại Grand Prix d’Horlogerie de Genève.
Năm 2012, Seiko tiếp tục được vinh danh với những phát minh mang tính cách mạng trong thế giới máy đo thời gian khi cho ra mắt Seiko Solar chạy bằng năng lượng ánh sáng.
Năm 2017, Grand Seiko tách khỏi Seiko để hoạt động độc lập với chiến lược để cho Grand Seiko sáng tạo, cả tiến và tăng sức mạnh cạnh tranh hơn nữa trên thị trường.
Trên đây là những cột mốc chính trong quá trình hơn 100 năm phát triển của thương hiệu đồng hồ Seiko. Bạn hoàn toàn có thể nhận ra sự nỗ lực không ngừng của họ từ những ngày đầu thành lập. Hiếm có thời gian nào mà những sáng tạo của Seiko bị ngắt quãng. Rất nhiều phát minh công nghệ đầu tiên trên thế giới được tìm tòi và ứng dụng bởi Seiko.
Rõ ràng, phong cách phát triển của Seiko mang thần thái của một ông lớn. Điều đó giải thích tại sao, suốt 100 năm, không một thương hiệu nào có thể soán ngôi vương của Seiko trong giới đồng hồ xứ anh đào, và cũng dễ hiểu rằng, tại sao, đế chế đồng hồ Thụy Sĩ phải nghiêng mình thán phục ngay từ khi Seiko mới bước chân vào cuộc chơi.
Giao hàng toàn quốc
Tiếp tục mua hàngPhí vận chuyển: Tính lúc thanh toán
Thành tiền:
Gửi bình luận
Bình luận